
Điều trị dự trù (over treatment) trong chỉnh nha bằng khay trong suốt
Vì sao bác sĩ lại cần điều trị dự trù (over treatment) trong kế hoạch điều trị? Trước hết, quý bác sĩ hãy cùng ARRASMILE tìm hiểu một chút về những điểm tương đồng giữa khí cụ “dây thẳng” tiền chỉnh mắc cài và khay niềng trong suốt nhé!
Ở khí cụ dây thẳng, mắc cài đã được điều chỉnh trước, có nghĩa độ tip, torque, in và out, độ xoay đã được tính sẵn trong mắc cài, khi đặt dây thẳng vào sẽ dàn đều tất cả các răng. Như chúng ta đều biết, “dây thẳng” không thực sự là dây thẳng. Ý của câu nói này là bác sĩ chỉnh nha không đơn thuần đặt dây vào và chờ xem răng sẽ được sắp đều một cách thần kỳ.

Một số lý do mà mắc cài không thể tự điều trị đó là sự khác biệt giữa các bệnh nhân về:
- Mặt giải phẫu
- Kích thước, hình dạng, giải phẫu răng
- Khác biệt xương & mật độ xương
- Di truyền giữa các bệnh nhân
Vì nhiều sư khác biệt này, nên chúng ta phải có kế hoạch điều trị dự trù cho từng bệnh nhân cụ thể. Điều này hoàn toàn tương tự với điều trị bằng khay trong suốt. Chúng ta không thể phó mặc cho kỹ thuật viên sản xuất khay của hãng, mà thay vào đó bác sĩ chúng ta mới là người quyết định điều trị chỉnh bằng khay như thế nào.
Dựa vào tiền đề đó, có 4 loại cần cân nhắc điều trị dự trù trong kế hoạch:
- Cắn sâu/ hở
- Nghiêng gần xa (tip)
- Nghiêng ngoài trong
- Nong hàm

1. Cắn sâu

Đối với bệnh nhân cắn sâu, nếu bệnh nhân điều trị bằng khí cụ cố định thì dùng dây cung đảo ngược để làm phẳng đường cong Spee.

Bác sĩ chỉnh nha đều biết rằng hình dạng dây cung sẽ tác động tạo ra một hệ thống lực giúp làm bằng cung răng dưới và làm phẳng đường cong Spee. Bác sĩ tăng thêm vào dây cung biết rằng nó sẽ tạo ra hệ thống lực để làm bằng cung hàm.
Ý tưởng tương tự được áp dụng với điều trị bằng khay trong suốt. Đối với tất cả những trường hợp cắn sâu, hãy kết thúc với độ cắn sau cùng là 0mm.
2. Cắn hở

Kế hoạch điều trị cho bệnh nhân cắn hở bằng khay trong suốt là đánh lún ở răng hàm lớn trên để tạo cắn hở phía sau. Vì sao lại như vậy? Vì kế hoạch điều trị không phải là để dự đoán vị trí sau cùng, mà là hệ thống lực tác động lên răng. Hệ thống lực, không phải răng. Đánh lún là một di chuyển rất thách thức. Nhưng tăng lực đánh lún lên răng hàm lớn trên sẽ đảm bảo bác sĩ đánh lún đủ để tự xoay xương hàm dưới và đóng khớp cắn.
3. Nghiêng gần xa và nong
Điều trị dự trù thứ 3 là nghiêng gần xa từng răng là nghiêng lố 10 độ khi không có khoảng trên cung hàm, và nghiêng lố 30 độ để đóng khoảng.

Ví dụ bệnh nhân mất răng 46, răng 47 nghiêng gần vào khoảng mất răng (như hình trên). Kế hoạch điều trị là nhổ răng 48, đánh lún răng 16, di xa răng 47 về khớp cắn hạng I để tạo khoảng cho implant. Bác sĩ chỉnh nha sẽ yêu cầu kỹ thuật viên hãng sản xuất khay rằng: “Hãy cho chân răng 47 nghiêng thêm 30 độ về phía xa).
Vì khí cụ sẽ tác động chủ yếu vào thân răng ở vị trí xa so với tâm xoay, do đó có xu hướng làm răng bị nghiêng.
4. Nghiêng ngoài trong
Nguyên tắc cơ bản là thêm 10-30 độ tùy từng trường hợp.
Ví dụ ở bệnh nhân dưới đây:

Thách thức lâm sàng là di chuyển răng 12 và 22 ra ngoài thoát cắn chéo. Điều trị chỉnh nha bằng khay hay khí cụ cố định đều tác động lực lên thân răng, răng cửa bên hàm trên sẽ có xu hướng nghiêng ra ngoài, bác sĩ chúng ta không muốn điều này xảy ra, chúng ta muốn những răng này di chuyển tịnh tiến. Cần tăng độ torque chân răng 12 và 22 ra phía ngoài 30 độ để chống nghiêng.
Tóm lại có 4 loại cần cân nhắc điều trị dự trù: Cắn sâu/ hở, nghiêng gần xa, nghiêng ngoài trong và nong hàm. Điều trị dự trù xuất hiện trên kế hoạch điều trị từ khi bắt đầu tới khi kết thúc. Và có thể được coi là over-engineering khi đặt thêm các lực lên răng nhằm đạt được di chuyển mong muốn.
Tìm hiểu thêm: